Du lịch Bến Tre từ lâu đã là địa danh được rất nhiều du khách gần xa yêu mến bởi phong cảnh non nước hữu tình, thơ mộng và người dân chân chất, bình dị. Một không gian xanh mát và những trải nghiệm thú vị chỉ có ở miền Tây sông nước đang chờ bạn khám phá.
NHỮNG ĐIỂM DU LỊCH SINH THÁI TUYỆT VỜI
Du lịch Bến Tre bạn không nên bỏ qua các khu du lịch sinh thái xanh mát ở đây. Những khu du lịch sinh thái này sẽ giúp bạn khám phá được vẻ đẹp sông nước Bến Tre và gần gũi hơn với con người và thiên nhiên thơ mộng nơi đây.
Khu du lịch Cồn Phụng
Cồn Phụng được nhiều du khách bình chọn là điểm du lịch tiêu biểu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là điểm đến không thể bỏ qua khi du lịch Bến Tre. Với không gian được thiết kế theo lối kiến trúc mở, hòa mình vào cảnh quan thiên nhiên xung quanh. Đến đây du khách có thể tát mương bắt cá rồi đem cá bắt được chế biến tại chỗ, vừa thơm ngon lại vừa tận hưởng không khí bữa cơm vùng quê sông nước.
luu-y-khi-di-du-lich-ben-tre-1
Tiếp đó, du khách có thể đi xe đạp hoặc xe ngựa trên những con đường làng để tham quan, tìm hiểu cuộc sống của người dân. Bạn cũng có thể lựa chọn ngồi thuyền đến thăm các vườn trái cây hoặc các làng nghề truyền thống nổi tiếng. Chắc chắn với phong cảnh vùng sông nước hữu tình và lòng mến khách của người dân nơi đây sẽ khiến du khách cảm thấy thoải mái và thư giãn tuyệt vời trong chuyến du lịch Bến Tre của mình.
Khu du lịch Phú An Khang
Hành trình khám phá khu du lịch sinh thái Phú An Khang là hành trình trở về với cuộc sống miền quê đầy yên bình, thơ mộng. Tại đây, du khách được tự do dạo quanh các khu vườn trái cây trĩu quả như: Vườn sơri, vườn ổi, vườn cam, vườn quýt và được tận tay hái trái. Sau khi khám phá những khu vườn, du khách có thể ngả lưng trên những chiếc võng đung đưa trong nhà vườn vừa thưởng thức những trái ngon vừa hái vừa cảm nhận sự yên bình của chốn làng quê miền sông nước.
Vào các ngày cuối tuần, khu du lịch này còn phục vụ thêm các tiết mục biểu diễn tay nghề và phục vụ ẩm thực đối với các món ăn đặc sản như: Chiên bánh xéo tép nước cốt dừa, gói bánh ít sôi động, cuốn hút nhiều du khách tham quan.
Vườn chim Vàm Hồ
Sự đa dạng về sinh học và các hệ động thực vật hoang dã độc đáo như: dơi, chồn, rắn, trăn, sóc, diệc xám …là điểm thu hút khách tham quan vườn chim Vàm Hồ.
vuon-chim-vam-ho
Bạn có thể băng xuyên qua rừng hoặc cũng có thể ngồi trên những chiếc xuồng len lỏi trong khu rừng ngập mặn để tận hưởng trọn vẹn cảm giác khám phá thiên nhiên. Sau khi có một chuyến thám hiểm thú vị bạn sẽ được thả sức thưởng thức các món ăn dân dã được chế biến từ những nguyên vật liệu tự nhiên được lấy từ rừng như tôm, cá, rùa … Tuy dân dã nhưng mang đậm nét đặc trưng của vùng sông nước.
THAM QUAN NHỮNG LÀNG NGHỀ
Các làng nghề truyền thống của Bến Tre có lịch sử phát triển lâu đời, mang trong mình những nét đặc sắc của nền văn hóa cư dân bản địa. Chính vì vậy đã tạo nên những sản phẩm nổi tiếng mang thương hiệu riêng của vùng đất xứ dừa.
Làng hoa kiểng Chợ Lách
Nằm dọc con sông Cổ Chiên quanh năm được bồi đắp một lượng phù sa dồi dào, chợ Lách ngoài việc là vùng trồng nhiều loại trái cây còn là vùng đất nổi tiếng về sản xuất cây giống và trồng hoa kiểng. Các vườn cây kiểng bạt ngàn với đủ mọi kiểu dáng và màu sắc sẽ làm đắm say lòng du khách.
lang-hoa-kieng-cho-lach
Những cây si với độ mềm dẻo đáng kinh ngạc được các nghệ nhân uốn, tạo hình thành các con vật như:12 con giáp, hươu, nai, khủng long, cá hóa rồng … và các hình thú vị như hồ lô, ấm trà, tháp Eiffel … Một lần đặt chân đến đây du khách mới cảm nhận hết được cái đẹp của vùng đất được mệnh danh là “Vương quốc cây trái và hoa kiểng” của cả vùng Nam Bộ.
Làng kẹo dừa Mỏ Cày, Châu Thành
Kẹo dừa là sản phẩm nổi tiếng và đặc trưng của Bến Tre mà hiếm nơi nào có thể làm giống được. Du khách muốn tìm hiểu về cách làm kẹo truyền thống có thể đến với Mỏ Cày hoặc bạn cũng có thể đến tham quan tại làng nghề sản xuất kẹo dừa ở phường 7 hay các khu du lịch sinh thái ở Châu Thành.
lang-nghe-keo-dua-ben-tre
Tại những địa điểm này, du khách có thể tận mắt chứng kiến người dân địa phương làm nên những chiếc kẹo thơm ngọt. Thú vị hơn là bạn cũng có thể trực tiếp tham gia vào quá trình làm nên những cây kẹo này để có thể trải nghiệm, thấu hiểu tâm tư của người dân làm nghề này.
Để làm nên chiếc kẹo dừa có hương vị thơm ngon nhất, người thợ đã lựa chọn những nguyên liệu tốt nhất như: Nếp làm mạch nha phải to và chín đều, dừa mới vừa hái xuống, đường mới, có màu vàng tươi. Tất cả tạo nên chiếc kẹo dừa Bến Tre không thể lẫn vào đâu giữa rất nhiều hương vị kẹo dừa ở những xứ sở khác. Những chiếc kẹo ngọt thơm khiến du khách muốn một lần được nếm thử và mua về làm quà cho người thân.
Làng thủ công mỹ nghệ Giồng Trôm
Dừa Bến Tre không chỉ để làm kẹo dừa mà những bộ phận khác của nó còn được người dân tận dụng sản xuất thành các sản phẩm có ích khác, đặc biệt là sản xuất thành các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được du khách ưa chuộng. Trong đó, làng nghề nổi bật nhất trong lĩnh vực này là làng nghề thủ công mỹ nghệ Giồng Trôm.
lang-nghe-thu-cong-my-nghe
Dưới bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ người dân đã tạo nên những sản phẩm vô cùng đẹp và độc đáo như: Hình động vật, hình người, bàn ghế,… Đặc biệt, tranh ghép từ các mảnh gáo dừa cũng khiến du khách cảm thấy vô cùng hứng thú và yêu thích. Đến với làng nghề, du khách có thể tận mắt chiêm ngưỡng những sản phẩm này dần hình thành vưới bàn tay điêu luyện của người thợ, để thêm khâm phục tài hoa của những người dân quê chân chất.
THĂM CÁC VƯỜN TRÁI CÂY TRĨU QUẢ
Bến Tre cũng là tỉnh nổi tiếng cả nước với các vườn trái cây mang đầy đủ đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nơi đây hội tụ nhiều loại quả thơm ngọt như: Bòn bon, măng cụt ở Cái Mơn, bưởi da xanh ở Sơn Định, đến chôm chôm ở Vĩnh Bình, cam sành ở Phú Phụng …
vuon-trai-cay-ben-tre
Tới đây, du khách có thể ngồi trên xe ngựa đến những vườn trái cây tham quan. Để có nhiều trải nghiệm thú vị hơn nữa bạn có thể chọn đi thuyền trên sông, ngắm nhìn những cành cây sai quả sà xuống gần chạm mặt nước. Một lần được thưởng thức những loại trái cây tươi ngon của Bến Tre du khách mới cảm nhận được cái ngọt, cái thanh từ tinh túy vùng đất sông nước.
ĐẶC SẢN XỨ DỪA
Nói đến đặc sản Bến Tre hẳn du khách sẽ nghĩ ngay đến kẹo dừa, đặc biệt là kẹo dừa Mỏ Cày. Dừa ở Mỏ Cày có vị ngọt thanh đặc trưng cộng với những công thức chế biến riêng tạo nên thương hiệu đặc trưng của mình. Ngày nay, người thợ làm kẹo đã tạo nên những hương vị mới làm say lòng du khách và tạo thêm nhiều lựa chọn cho bạn: Kẹo dừa ca cao, kẹo dừa sầu riêng, kẹo dừa đậu phộng …
dac-san-ben-tre
Đuông dừa – một loại sâu dừa – là một đặc sản dành cho những du khách ưa khám phá và khá can đảm thưởng thức khi du lịch Bến Tre. Nếu chỉ nhìn bên ngoài thì rất nhiều người sẽ sợ hãi không dám thử món này. Tuy nhiên nếu can đảm, dám một lần thử một lần du khách sẽ bị lôi cuốn bởi hương vị thơm ngon, béo ngậy hấp dẫn. Đặc biệt, được đánh giá là món ăn ngon siêu hạng nên đuông dừa khi chế biến không cần những nguyên liệu phụ trợ khác như rau củ …
Bánh xèo là món ăn khá phổ biến ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, bánh xèo Bến Tre có phần nhân rất đặc biệt, được làm từ ốc gạo. Để thưởng thức bánh xèo ốc gạo ngon, du khách phải đến tận Chợ Lách, thời điểm ngon nhất là tháng 4 và tháng 7 mùa sinh trưởng của ốc gạo. Khi thưởng thức những chiếc bánh xèo Chợ Lách, du khách sẽ cảm nhận được vị béo ngậy của nước cốt dừa, độ giòn của củ sắn xắt sợi, giá đỗ, vị ngọt, dai của ốc gạo vô cùng hấp dẫn, thuyết phục được cả những người sành ăn nhất.
MỘT SỐ LƯU Ý KHI DU LỊCH BẾN TRE
Bạn có thể du lịch Bến Tre vào các thời điểm trong năm. Nếu thích những hoạt động sông nước như: Câu cá, bắt chuột đồng,… bạn có thể đến đây vào mùa nước nổi.
Du lịch Bến Tre, du khách có thể lựa chọn nghỉ ngơi tại những khách sạn như: Hàm Uông, Việt Úc,… Hoặc bạn cũng có thể lựa chọn loại hình du lịch home stay, nghỉ ngơi và sinh hoạt ngay tại nhà người dân.
luu-y-khi-di-du-lich-ben-tre
Những món ăn bạn nên thưởng thức khi đến Bến Tre: Canh chua cá linh bông sua đũa, cơm dừa Bến Tre, củ hũ dừa, hủ tiếu Pate, lẩu cháo cua đồng, …
Các địa điểm tham quan bạn nên đến: Cồn Phụng, Cồn Ốc, Cồn Tiên, sân chim Vàm Hồ, chù Tuyên Linh, Làng du kích Đồng Khởi …
Bến Tre là nơi có nhiều địa điểm du lịch thú vị đáng để bạn khám phá. Với tour du lịch Bến Tre giá rẻ 2 ngày cùng Đất Việt Tour chắc chắn bạn sẽ có những trải nghiệm không thể nào quên.
Mọi thông tin, quý khách vui lòng liên hệ: Công ty cổ phần ĐT- TM – DV Du lịch Đất Việt: 198 Phan Văn Trị, P.10, Gò Vấp, Tp.HCM. Tư vấn & đặt tour: (08) 3894 1794. Hotline: 0976 046 046 – 0966 980 949.
Category Archives: Du lịch Bến Tre
Du lịch Bến Tre – Vùng Sông Nước
Sơ lược
Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, tiếp giáp với biển Đông, có bờ biển dài 60 km. Phía bắc giáp Tiền Giang, phía tây và tây nam giáp Vĩnh Long, phía nam giáp Trà Vinh. Thị xã Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 85 km.Bến Tre có 8 đơn vị hành chính cấp huyện gồm
- Thị xã Bến Tre
- Huyện Ba Tri
- Huyện Bình Đại
- Huyện Châu Thành
- Huyện Chợ Lách
- Huyện Giồng Trôm
- Huyện Mỏ Cày
- Huyện Thạnh Phú
Trong thời Chiến tranh Việt Nam, Bến Tre được coi là quê hương “Đồng Khởi”, mở đầu cho cao trào đấu tranh vũ trang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam chống chế độ Ngô Đình Diệm, khốc liệt nhất là trong năm 1960.
Bến Tre có nhiều loại cây ăn trái như cam, quít, sầu riêng, chuối, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, xoài cát, bòn bon, khóm, vú sữa,bưởi da xanh, … trồng nhiều ở huyện chợ lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày và Châu Thành. Ngoài ra huyện chợ lách còn là nơi trồng các loại hoa kiểng, Bonsai nổi tiếng Trong thời gian gần đây cây táo hồng đang được phát triển rất mạnh tại một số huyện như Mỏ Cày, Chợ Lách,…
Thời gian đầu, loại cây này mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho các nhà vườn. Tuy nhiên trong thời gian một năm nay thì thị trường tiêu thụ bắt đầu gặp khó khăn. Nguyên nhân chính là do thị trường tiêu thụ chính (chủ yếu tiêu thụ quả tươi) đã bão hòa nhưng không tìm được hướng thị trường mới và chứa chế biến để có thể bảo quản lâu dài.
Ngoài kẹo dừa, Bến Tre có các sản phẩm nổi tiếng như bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc. Làng nghề Cái Mơn, huyện Chợ Lách, hàng năm cung ứng cho thị trường hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh nổi tiếng khắp nơi. Nới đây cũng có nghề rang trầu và làm “cau tầm vung” (cau để chín khô trên cây, không xắt ra) rất nổi tiếng trong nước
Đi đâu, chơi gì?
Một số địa điểm du lịch có tiếng làCồn Phụng (Cồn Ông Đạo Dừa)


Cồn Phụng có di tích Đạo Dừa trên diện tích chừng 1.500m², hiện được bảo tồn nguyên trạng các hạng mục kiến trúc được xây dựng từ thời giáo chủ Đạo Dừa là Nguyễn Thành Nam: sân 9 con rồng; tháp Hoà bình (cửu trùng đài) – nơi ông Đạo Dừa ngồi giảng kinh pháp và truyền bá đạo giáo, toà tháp có kiến trúc lạ mắt với những mảng đắp chạm rồng, phượng được gắn bằng những mảnh vỡ của bát đĩa, ấm chén; một đỉnh lớn. Nguyễn Thành Nam tự xưng là “Xứ giả của hòa bình”, chủ trương mang lại hoà bình từ mọi tôn giáo, sống bằng hoa trái (không ăn các sản vật khác).Thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, nằm trên một cù lao nổi giữa sông Tiền, đến Cồn Phụng du khách có thể đi xuồng máy dọc cồn thăm các cơ sở sản xuất kẹo dừa, sản xuất đồ lưu niệm từ cây, vỏ trái dừa… lên xe ngựa thăm vườn cây ăn trái, dừng chân ngồi nghỉ dưới ngôi nhà lợp lá dừa để uống trà với mật ong và quất, thưởng thức các món ăn trái cây miền nhiệt đới, nghe nhạc đờn ca tài tử.Tại đây có nhiều món đồ lưu niệm: từ những chiếc mặt nạ xanh đỏ, khung ảnh, chiếc xe ba gác, đến đồ dùng nhà bếp như chén, bát, muỗng, thìa… hầu hết được chế tác từ dừa.
Cồn Ốc (Cồn Hưng Phong) thuộc xã Hưng Phong, huyện Giồng Trôm, có nhiều vườn dừa và vườn cây ăn quả.
Cồn Tiên
Sân chim Vàm HồThuộc xã Tiên Long, huyện Châu Thành, là một bãi cát đẹp, hàng năm vào ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng vạn người đến tắm và vui chơi giải trí.
![]() |
Thuộc địa phận hai xã Mỹ Hòa và Tân Xuân, huyện Ba Tri, là nơi trú ngụ của gần 500.000 con cò và vạc và các loài chim thú hoang dại khác cùng với rừng chà là và thảm thực vật phong phú gồm các loại cây ổi, so đủa, đậu ván, mãng cầu xiêm, dừa nước, đước đôi, bụp tra, chà là, ô rô, rau muống biển…
Tới thăm sân chim Vàm Hồ, du khách được đi dạo đường rừng, bơi xuồng len lỏi trong rừng ngập mặn, tham quan khu căn cứ kháng chiến, đi qua những chiếc cầu tre lắt lẻo, ngả lưng trên chiếc võng đung đưa dưới tán lá rừng, hít thở không khí trong lành của dòng sông Ba Lai.
Cái Mơn cũng là nơi có nhiều nghệ nhân, nhân giống triết cành tạo nên các loại cây cảnh và hình bó nai, hình con hươu, nai, rồng, phượng… rất đẹp mắt. Sản phẩm được bán nhiều ở Thủ Ðức, Biên Hòa,… và xuất sang các nước trong khu vực Đông Nam Á.Nổi tiếng với Sầu riêng Cái Mơn thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách. Ðến đây mùa nào cũng có các loại trái cây để ăn. Làng nghề Cái Mơn hàng năm còn cung ứng cho thị trường nhiều triệu cây giống các loại như sầu riêng, măng cụt, xoài cát, nhãn tiêu, bòn bon và các loại cây có múi.
Bãi biển Thừa Đức thuộc Bình Đại
Ngoài ra cũng có du lịch trên sông nước và các bãi như bãi Ngao, huyện Ba Tri.
Có hai lễ hội lớn ở Bến Tre là hội đình Phú Lễ và Lễ hội nghinh Ông.
- Đình Phú Lễ ở ấp Phú Khương xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh. Hàng năm lễ hội đình Phú Lễ diễn ra 2 lần: lễ Kỳ Yên vào ngày 18, ngày 19 tháng 3 âm lịch để cầu cho mưa thuận, gió hòa và lễ Cầu Bông vào ngày 9, ngày 10 tháng 11 âm lịch cầu cho mùa màng tươi tốt. Lễ hội có rước sắc thần, lễ tế Thành Hoàng, người đã có công khai khẩn giúp dân trồng trọt. Đêm có hát bội và ca nhạc tài tử.
- Lễ hội nghinh Ông là lễ hội phổ biến của các làng ven biển của Việt Nam, trong đó có Bến Tre. Hàng năm vào các ngày 16/6 âm lịch tại các đình đền hay miếu của các xã thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri, mở lế hội này. Trong ngày hội tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung neo đậu để tế lễ, vui chơi và ăn uống.
Lễ hội nghinh ông lễ hội phổ biến của các làng ven biển của Việt Nam
Tại Bến Tre cũng có nhiều di tích Phật giáo hay mộ các nhân vật nổi tiếng.
Các chùa nổi tiếng ở Bến Tre là chùa Hội Tôn, chùa Tuyên Linh, chùa Viên Minh. Chùa Hội Tôn Chùa được thiền sư Long Thiền dựng vào thế kỷ 18 tại ấp 8, xã Quới Sơn, huyện Châu Thành và được trùng tu vào các năm 1805, 1884, 1947 và 1992. Chùa Tuyên Linh được dựng vào năm 1861 ở ấp Tân Quới Đông B, xã Minh Đức, huyện Mõ Cày, và được tu sửa và mở rộng vào các năm 1924, 1941, 1983. Chùa Viên Minh tọa lạc ở 156, đường Nguyễn Đình Chiểu, thị xã Bến Tre, với kiến trúc hiện nay được xây từ năm 1951 đến 1959.
![]() Đền thờ cụ Nguyễn Đình Chiểu |
Các nhân vật nổi tiếng có mộ ở đây là Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản và Phan Thanh Giản và nữ tướng Nguyễn Thị Định. Ngôi mộ của nhà bác học nổi tiếng Trương Vĩnh Ký cũng ở Bến Tre (Cái Mơn - xã Vĩnh Thành, Huyện Chợ Lách, Tỉnh Bến Tre).
Bến Tre là tỉnh có nhiều điểm thú vị để đi du lịch, Bến Tre có biển, có vườn, có nhiều đặc sản trái cây và nhiều di tích văn hóa, thuận lợi để phát triển loại hình du lịch sinh thái, và các loại hình du lịch miệt vườn.
Làng nghề tiểu thủ công nghiệp xứ dừa
Việc phát triển làng nghề hiện nay không chỉ thể hiện ở lợi nhuận kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động tại địa phương, mà còn bảo tồn được những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc được truyền từ đời này sang đời khác. Là nơi tập trung sản xuất các sản phẩm có bản sắc riêng. Đây cũng là cơ hội để quảng bá hình ảnh đất nước, quê hương trên mọi miền tổ quốc và ra thế giới. Đặc biệt, phát triển làng nghề cũng là một trong những nguồn tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng.
Đất Bến Tre hình thành trên ba dãy đất cù lao lớn (cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hóa), được thiên nhiên ưu đãi về cảnh quan sông nước hữu tình, về cây xanh trái ngọt trong cả bốn mùa, về không khí trong lành, êm ả, về những món đặc sản của sông, của biển, của miệt vườn… Đặc biệt, vùng đất này rất phù hợp với phát triển cây dừa, vì thế mà xứ sở này có rừng dừa xanh bạt ngàn, bát ngát, mênh mông. Với đặc điểm trên, làng nghề ở đây cũng phát triển đa dạng và phong phú như: Sản xuất chỉ xơ dừa, hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa và các làng nghề tiểu thủ công nghiệp khác. Hoạt động làng nghề ở đây tuy không nhiều như những địa phương khác, song nó phù hợp với sự khéo léo của người dân sở tại. Đến đây du khách sẽ được khám phá các làng nghề.
Làng nghề tiểu thủ công nghệ Phước Long – Giồng Trôm
Từ thành phố Bến Tre du khách qua cầu Bến Tre 2, rẽ phải theo tỉnh lộ 887 đi khoảng 12km là đến làng nghề tiểu thủ công nghiệp Phước Long ở xã Phước Long, huyện Giồng Trôm. Ra đời trong những năm gần đây, do biết vận dụng sáng tạo và sử dụng hợp lý giá trị mà cây dừa đem lại, nên làng nghề đã cho ra đời hàng loạt sản phẩm phong phú như: sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa, đan giỏ cọng dừa, sản xuất chỉ xơ dừa,…
Du khách đến nơi đây sẽ được tận mắt chứng kiến các công đoạn làm ra một sản phẩm “giỏ cọng dừa” mà người thợ chỉ cần học đan 3 ngày và thực hiện 8 công đoạn như: ra nan, cột khung, đan, bính, quấn quay, nứt, hoàn thành phần đáy giỏ và cuối cùng là vô cây trữ vào kho chứa. Nghề đan giỏ cọng dừa ở Bến Tre đã xuất hiện trên 20 năm, ban đầu chỉ làm để phục vụ trong công việc hằng ngày nhưng dần dần đã phát triển thành làng nghề với quy mô lớn có giá trị xuất khẩu cao.
Làng nghề đan giỏ cọng dừa Hưng Phong – Giồng Trôm
Hưng Phong (còn gọi là Cồn Ốc), nằm cách biệt với đất liền, trên một cồn tự nổi. Hiện nay, để đến làng nghề này, du khách có thể đi bằng đường thủy lẫn đường bộ. Nếu đi đường thủy thì từ bến sông Bến Tre du khách sẽ xuôi theo dòng Hàm Luông mất khoảng hơn 45 phút; đường bộ thì từ thành phố Bến Tre du khách đi qua cầu Bến Tre 2 đi thẳng theo đường tỉnh 887, tới ngã 3 Phước Long đường ra Bến phà Hưng Phong, rẽ phải đi thẳng khoảng 6km qua phà sẽ đến xã Hưng Phong.
Nghề đan giỏ cọng dừa ở đây được hình thành dù chỉ mới hơn 16 năm, nhưng có bước phát triển khá mạnh phần lớn là sản xuất theo hộ gia đình. Nhờ mẫu mã đa dạng nên ngày càng được thị trường ưa chuộng, đặc biệt vào dịp cuối năm do nhu cầu làm giỏ quà tặng, nên sản phẩm được tiêu thụ rất nhiều. Các công đoạn làm giỏ cũng như tại làng nghề Phước Long.
Làng nghề chỉ xơ dừa An Thạnh và Khánh Thạnh Tân
Từ thành phố Bến Tre du khách đi qua cầu Hàm Luông theo QL60 đến thị trấn Mỏ Cày Nam, đi khoảng 3km du khách rẽ phải sẽ đến làng nghề chỉ xơ dừa An Thạnh, Mỏ Cày Nam. Làng nghề chỉ xơ dừa Khánh Thạnh Tân, Mỏ Cày Bắc cũng cách đó khoảng 10km.
Đây là làng nghề mới phát triển sau này và có vệ tinh nằm rải rác trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là những vùng có trồng nhiều dừa. Nhưng chủ yếu vẫn là ở xã An Thạnh – Mỏ Cày Nam và xã Khánh Thạnh Tân – Mỏ Cày Bắc. Cấu tạo tự nhiên địa giới hành chính 02 địa phương này nằm bên dòng sông Thơm, là điều kiện vô cùng thuận lợi để vận chuyển sản phẩm bằng đường thủy. Người dân Bến Tre vốn từ lâu đã biệt vận dụng, sáng tạo từ cây dừa vốn từ lâu đã quen thuộc với người dân Bến Tre. Dừa được biến hóa ra nhiều sản phẩm rất phong phú và đa dạng. Nhưng đặc biệt, tại hai làng nghề này là sản xuất ra những sản phẩm từ xơ dừa se lại thành chỉ… Chỉ xơ dừa có nhiều loại khác nhau như chỉ nệm, chỉ xơ cứng, chỉ xơ xoắn, chỉ nệm tráng cao su, thảm dệt, chiếu thảm, thảm trải sàn,… Hiện nay các sản phẩm này được xuất thường xuyên sang các nước Hàn Quốc, Ấn Độ…
Làng nghề dệt chiếu (Nhơn Thạnh – An Hiệp – Thành Thới B)
Qua cầu Rạch Miễu theo QL60, đến vòng xoay ngã tư Tân Thành rẽ phải theo đường tỉnh 884 du khách đi khoảng hơn 9km, hay từ TP. Bến Tre đi đường bộ 12km sẽ đến làng nghề dệt chiếu An Hiệp ở ấp Thuận Điền – xã An Hiệp – Châu Thành. Hay du khách có thể đến làng nghề dệt chiếu Nhơn Thạnh nằm ở vùng ven thành phố Bến Tre. Ngay ngã tư Tân Thành du khách theo đường tránh QL60 qua cầu Bến Tre 2, qua xã Mỹ Thạnh An là sẽ đến địa phận xã Nhơn Thạnh. Ở huyện Mỏ Cày Nam cũng có làng nghề dệt chiếu bằng cây cói rất nổi tiếng ở xã Thành Thới B, du khách cứ theo QL60 qua Cầu Hàm Luông đi tiếp khoảng trên 25km theo hướng đi Trà Vinh là đến nơi.
Đối với Bến Tre, nghề dệt chiếu cũng xuất hiện khá sớm, diễn ra quanh năm tại nhiều làng trong xã và thường bắt đầu từ tháng giêng đến hết tháng chạp âm lịch. Tuy vậy, hoạt động sản xuất chiếu thường nhộn nhịp vào những tháng cuối năm, bởi thời gian này, người dân trong tỉnh và những tỉnh thành lân cận thường mua những chiếc chiếu mới, có hoa văn trang trí đẹp về sử dụng trong gia đình, chùa chiền, đền miếu,… Đối với nghề dệt chiếu, phụ nữ được xem là những người thợ chính, bởi họ có sự nhẫn nại và đôi bàn tay mềm mại, tài hoa, nên họ có thể dệt những chiếc chiếu đẹp, bền chắc trong thời gian nhanh nhất. Lát là nguyên liệu chính của nghề dệt chiếu. Do điều kiện khí hậu nên lát được trồng nhiều ở các địa phương trong tỉnh như xã Nhơn Thạnh, thành phố Bến Tre; An Hiệp, Châu Thành; riêng xã Thành Thới B, Mỏ Cày Nam thì nguyên liệu lấy từ cây cói. Những năm trước đây, người dân làng nghề dệt chiếu sử dụng nguyên liệu tại các địa phương trong tỉnh. Ngày nay, do nhu cầu sử dụng chiếu ngày càng nhiều nên phải mua lát từ các tỉnh Vĩnh Long, Đồng Tháp về để sản xuất. Sản phẩm của nghề dệt chiếu được tiêu thụ ở nhiều nơi trong nước, từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ Bắc vào Nam. Người thợ dệt chiếu có thể bán trực tiếp cho người dân trên địa bàn hoặc bán cho những người gánh chiếu bán dạo ở các địa bàn lân cận. Ngoài ra, sản phẩm của làng nghề dệt chiếu còn được xuất khẩu ra nước ngoài.
Về xứ dừa khám phá các đặc sản nổi tiếng
Từ xưa đến nay Bến Tre như là địa điểm quen thuộc của những ai đã từng đặt chân đến đây. Bởi cái vị mộc mạc, chân tình của người dân “xứ dừa” đã làm nên mối dây liên kết không thể tách rời giữa người bản địa và du khách. Cứ mỗi lần về xứ dừa, du khách sẽ được tận mắt cảm nhận những “cái nhất” được truyền từ đời này sang đời khác, mà đến nay người dân Bến Tre vẫn còn lưu giữ và gần như đã trở thành món ăn tinh thần, rồi trở thành “làng nghề” tự lúc nào mà chẳng ai nhớ rõ thời điểm ra đời của nó.
Làng nghề truyền thống ở Bến Tre ra đời gắn liền với thời gian, tồn tại và phát triển đã tạo nên sự giao thoa mãnh liệt giữa quá khứ – hiện tại. Qua đó, thúc đẩy một diện mạo mới cho những người có tâm huyết với nghề, đặc biệt là những nghề truyền thống đã góp phần làm nên những sản phẩm nổi tiếng của địa phương. Các làng nghề được phân bố đều tại các huyện, thành phố Bến Tre dựa trên những đặc điểm vốn có của từng địa phương, được nhân rộng ra, nhưng vẫn giữ được nét nguyên thủy ban đầu vốn có của nó. Hiện nay, du khách đến Bến Tre có thể tham quan khám phá một số làng nghề tiêu biểu.
Làng nghề sản xuất kẹo dừa Bến Tre
Kẹo dừa Bến Tre vừa là một đặc sản nổi tiếng của cả nước. Nó là một nghề thủ công truyền thống mang đậm nét văn hóa của xứ sở dừa. Không đơn thuần mà khi nhắc đến Bến Tre du khách không thể nào quên được “kẹo dừa” vừa ngon, vừa béo, vừa thơm, mà đi đâu ai cũng nhắc đến và cũng không nơi nào làm giống được. Kẹo dừa có nguồn gốc từ Mỏ Cày, vì thế mà ca dao Bến Tre đã lưu truyền:
“Bến Tre nước ngọt sông dài
Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh
Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo
Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan…”
Ngày xưa, người Bến Tre làm kẹo dừa để ăn trong gia đình hay để biếu bè bạn, người thân trong những dịp lễ, tết. Sau đó, nghệ thuật làm kẹo dừa đã không ngừng được cải tiến và đã trở thành một sản phẩm truyền thống đặc biệt của Bến Tre. Muốn làm kẹo ngon, khâu chọn nguyên liệu rất quan trọng. Thóc nếp dùng để nấu mạch nha phải là nếp tốt, hạt to chín đều. Để nẩy mầm thóc phải được tưới bằng nước mưa sạch rồi đem nấu lấy mạch nha. Thợ nấu mạch nha phải là thợ lành nghề điêu luyện. Dừa khô lựa trái “rám vàng” mới vừa hái xuống. Vì trái dừa mới bắt đầu khô này có hương vị đặc trưng, nước cốt có độ ngọt thanh. Đường nấu kẹo phải chọn loại đường mới, có màu vàng tươi. Ngày nay, người Bến Tre đã cải tiến làm thêm nhiều loại kẹo dừa có kết hợp với các nguyên liệu khác làm cho kẹo dừa Bến Tre ngày càng phong phú và ngon hơn, như: cho thêm hương vị sầu riêng, đậu phộng, thậm chí cả ca cao vào kẹo. Đây là hiện tượng giao lưu và tiếp biến văn hóa trong nghệ thuật ẩm thực rất sáng tạo của người Bến Tre, để đáp ứng sở thích của nhiều đối tượng khách hàng, để có thể mở rộng thị trường.
Sau này do nhu cầu và điều kiện phát triển kinh tế, việc sản xuất kẹo dừa đã được mở rộng ra ngoài huyện Mỏ Cày và hình thành nên làng nghề sản xuất kẹo dừa ở phường 7 – thành phố Bến Tre. Đây là điểm đến cho du khách tham quan, khám phá, trải nghiệm.
Từ vòng xoay Tân Thành, du khách đi thẳng theo Đại lộ Đồng Khởi để vào trung tâm thành phố Bến Tre. Đến vòng xoay chợ Bến Tre du khách rẽ phải qua đường Cách mạng Tháng Tám, sau đó đến vòng xoay chợ ngã năm, đi theo đường Nguyễn Văn Tư đến phường 7 tham quan làng nghề làm kẹo dừa. Ngoài ra, nếu du khách không vào trung tâm thì rẽ vào đường tránh QL60, ngay vòng xoay cầu Hàm Luông, hướng lên cầu Bến Tre 2 – đến vòng xoay Bình Phú, du khách rẽ phải là đến trung tâm làng nghề “Kẹo dừa Bến Tre”.
Có thể nói kẹo dừa luôn gắn bó với cuộc hành trình khám phá văn hóa, ẩm thực, du lịch ở vùng đất xứ dừa. Vì thế, mà khi du khách đến Bến Tre hình như ai cũng tìm mua kẹo dừa về làm quà cho gia đình, người thân, bè bạn.
Tại các điểm du lịch sinh thái Châu Thành, thành phố Bến Tre, có tổ chức các điểm sản xuất kẹo dừa truyền thống, để du khách tận mắt chứng kiến, cũng như trực tiếp tham gia vào quy trình làm ra sản phẩm kẹo dừa. Qua đó, du khách trải nghiệm và cảm nhận những tâm tư, tình cảm của người dân vùng sông nước xứ dừa.
Làng nghề sản xuất “Bánh tráng Mỹ Lồng”- “Bánh phồng Sơn Đốc” và “Bánh phồng Phú Ngãi”
Từ thành phố Bến Tre, du khách theo đường tỉnh 885 đi khoảng 7km là tới làng nghề làm “bánh tráng Mỹ Lồng”. Làng nghề này, nằm ở xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, sản phẩm rất được người tiêu dùng ưa chuộng. Có thể nói, đây là sản phẩm có tiếng cả trong lẫn ngoài tỉnh. “Bánh tráng Mỹ Lồng” có nhiều hương vị khác nhau, để du khách có thể lựa chọn như: bánh tráng béo nước cốt dừa (loại ngọt, mặn), bánh tráng béo dừa có thêm sữa, trứng gà hay bánh tráng sữa không dừa. Tuy nhiên, loại bánh tráng ngon nhất, được ưa chuộng nhất vẫn là bánh có dừa (loại này vừa béo, vừa xốp). Khi đặt bánh lên lò lửa than nướng, bánh vừa vàng tới đã tỏa mùi hương thơm béo béo, rất hấp dẫn.
Trải qua bao thăng trầm, tâm huyết nghề truyền thống, kết hợp với sự khéo léo từ những bàn tay của người thợ ngày nay ở làng nghề đã sáng tạo thêm loại bánh tráng nem (hay còn gọi là bánh tráng cuốn), vừa mỏng, vừa dai, vừa tay cuốn. Loại bánh tráng nem này, hiện có mặt ở rất nhiều nhà hàng sang trọng chốn thị thành.
Từ điểm làng nghề “Bánh tráng Mỹ Lồng”, du khách tiếp tục đi theo tuyến đường này khoảng 15km. Đến ngã ba Sơn Đốc, có bày bán thật nhiều dừa xiêm và bánh phồng nếp, rẽ phải gần 1km du khách đến làng nghề “Bánh phồng Sơn Ðốc”. Làng nghề này, nằm tại chợ Sơn Đốc, thuộc xã Hưng Nhượng, huyện Giồng Trôm. Chợ tuy nhỏ nhưng khang trang nằm lọt thỏm giữa rừng dừa xanh mát và những ngôi nhà tường mới xây lợp mái ngói, đã chứng tỏ sự hưng thịnh của làng nghề “Bánh phồng Sơn Ðốc”.
Là vùng làm bánh có tiếng từ lâu và nhờ có tiếng tăm như thế, nên bánh phồng được lấy tên bởi chính địa danh nơi làm bánh. Theo người làm bánh, thì bánh phồng làm công phu hơn bánh tráng. Nguyên liệu làm từ nếp nhưng phải nấu thành xôi, cho vào cối “quết” nhuyễn cùng với các phụ liệu khác; rồi mới bắt bột vo tròn lại, cán mỏng đem phơi. Cũng như bánh tráng, phơi bánh phồng là một kỳ công, nắng vừa phải, nếu nắng quá bánh sẽ chai, gặp mưa xuống bánh bị hư. Vào làng nghề quết bánh phồng mỗi sáng, du khách nhìn thấy và sẽ nghe tiếng chày thậm thịch, rộn rã khác thường. Bình thường mỗi lò quết khoảng 30 – 40 lít nếp mỗi ngày. Cao điểm nhất là vào dịp tết, có khi đến 200 lít.
Ở xã Phú Ngãi – Ba Tri cũng có một làng nghề làm bánh phồng rất có tiếng. Nếu du khách muốn tham quan, cũng tuyến đường tỉnh 885 này đến thẳng thị trấn Ba Tri. Sau đó tiếp tục đi khoảng 7 km nữa là đến làng nghề “Bánh phồng Phú Ngãi”. Mặc dù cũng làm bánh phồng như làng nghề ở Sơn Đốc, nhưng với bí quyết riêng nên bánh ở đây cũng ngon không kém gì nơi khác.
Theo truyền thống của người dân xứ dừa, khi thưởng thức được chiếc bánh tráng, bánh phồng, đều phải dùng lửa than để nướng. Người ta dùng vỏ dừa khô hoặc gáo dừa đốt thành than đỏ rực, rồi để bánh lên nướng. Bánh nướng phải trở qua, trở lại, liên tục thì bánh mới nở bung ra, vàng đều, ăn mới giòn và ngon. Mỗi khi tết đến, tiết trời se se lạnh, nhất là vào buổi sáng và tối, hình như gia đình nào ở làng quê xứ dừa cũng chuẩn bị cho nhà mình vài chục bánh tráng, vài chục bánh phồng. Rồi mọi người đều thích quây quần bên bếp lửa đỏ để nướng bánh, để thưởng thức, để được sưởi ấm. Rộn rã, lộn xộn nhất là sự chen chút giành chỗ ngồi quanh bếp lửa vẫn là các cháu nhỏ tuổi bí bô, tuổi cấp sách đến trường, để được ông, bà hay cha, mẹ, anh, chị cho những miếng bánh vừa mới nướng xong. Nhìn những gương mặt ngồi quanh bếp lửa, xem nướng bánh, hình như ai cũng có đôi gò má ửng hồng hây hây rất đáng yêu.
Ngày nay, do sự hối hả, tất bật của cuộc sống, do nhu cầu thưởng thức bánh ngày càng nhiều, nên người dân xứ dừa đã làm lò nướng được một lúc với số lượng rất bánh nhiều. Du khách có thể bắt gặp và dễ dàng mua các loại bánh tráng, bánh phồng nướng sẵn rất xốp, giòn, rất thơm ngon tại các điểm nằm dọc trên đường đến làng nghề này. Nếu du khách mua bánh mang về thì có thể nướng được trên bếp gas hay lò nướng bằng điện hoặc có thể cắt nhỏ ra dùng dầu, mở chiên như bánh phồng tôm.
Có thể nói, nghề quết bánh phồng kỳ công, vất vả hơn so với nghề làm bánh tráng, ngay cả từ khâu nguyên liệu đến các công đoạn làm ra sản phẩm.
Để trải nghiệm quy trình làm nên sản phẩm bánh tráng, bánh phồng, tại các điểm du lịch sinh thái Châu Thành có tổ chức các điểm làm bánh tráng, bánh phồng truyền thống, để du khách có thể tham quan và trực tiếp cùng tham gia làm bánh.
Làng nghề tiểu thủ công nghiệp Phú Lễ
Làng nghề TTCN ở Phú Lễ (Ba Tri) ngoài nghề đan đát còn có nghề nấu rượu nếp truyền thống rất nổi tiếng từ xưa đến nay. “Rượu Phú Lễ” không biết có tự bao đời, chỉ biết tư liệu sách sử ghi lại vào năm 1851, Đình Phú Lễ tại làng Phú Lễ – Ba Tri được vua Tự Đức sắc phong, trong nghi thức đón nhận sắc phong “Rượu Lễ” đóng vai trò quan trọng. Nguyên liệu dùng để nấu rượu này là loại nếp mùa dài ngày ngon nhất, được đích thân trưởng lão trong làng chọn 36 vị thuốc theo liều lượng thích hợp. Các vị thuốc đó là: trần bì, quế khâu, đinh hương, tất phát, đại hồi, sa nhân, tiểu hồi, lương cương, càng cương, bạch khấu, ngọc khấu, mai hoàng, hậu phát, thảo quả, quế chi, trạch lan, xích thước, hồng hoa, linh cừ, mật nang, tạo giác, cam thảo, son tàu, cam thảo nam, thiên niên kiện, cát cánh, bồ kết, hương truật, nhãn lòng, trầu lương, rau răm, lá nhãn, ngũ vị, tai vị, tiêu sọ, mồng tưới. Các vị thuốc này được xay nhuyễn, trộn bột gạo lứt, nhồi chung với cám, vo thành viên rồi phơi khô tạo thành một loại men đặc biệt gọi là hồ men.
Cũng từ tư liệu sách sử ghi lại và lưu truyền qua lời kể của các hộ dân có truyền thống nấu rượu lâu đời nơi đây, thì quy trình làm rượu Phú Lễ rất công phu. Nếp nấu chín rồi rắc trộn với men này, cho vào tĩnh ủ kín. Sau 07 ngày 07 đêm mới đưa vào diệm kháp. Lửa đun phải dùng chính vỏ trấu của nếp mùa, ngọn lửa phải đằm không lớn, không nhỏ thì rượu mới không bị đắng không bị “thét”. Rượu ra lò chưa dùng ngay mà phải hạ thổ (chôn xuống đất) 100 ngày, để hấp thụ âm dương của trời đất cho rượu thật “nhuần”. Đến ngày khai rượu, Trưởng lão chay tịnh sạch sẽ, lấy rượu hạ thổ đặt vào nơi trang trọng nhất. Nhờ vậy mà rượu Phú Lễ có được hương vị thật thanh tao, diễm tuyệt. Rượu Lễ này được chuyển về kính dâng Vua, được ngài khen tặng và đặt tên rượu theo tên làng là “Rượu Phú Lễ”.
Trải qua bao thăng trầm, vượt qua bao thử thách, bền bỉ tạo dựng, rượu Phú Lễ vẫn được người dân Phú Lễ làm công phu như thế, để giữ bằng được chất lượng của loại rượu danh tiếng này. Vì thế, mà hương vị rượu Phú Lễ ngày càng thanh tao diễm tuyệt hơn. Điểm đặc biệt nhất trong quy trình kháp rượu Phú Lễ là người dân sử dụng cùng lúc hai loại men để lên cơm da. Loại thứ nhất (men Phú Lễ) làm từ gạo lứt và một số vị thuốc bắc để lên cơm da. Loại thứ hai (hồ men Phú Lễ) cũng từ gạo lứt và có đến 36 vị thuốc dùng để tạo hương vị đặc trưng riêng cho rượu. Như vậy, nghề nấu rượu đế ở xã Phú Lễ đã có từ lâu đời và đã trở thành một làng nghề truyền thống của địa phương.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, giới “ẩm giả” sành điệu xưa nay vẫn xếp rượu Phú Lễ (Bến Tre) vào hàng “danh tửu” cùng với rượu Gò Đen (Long An), Xuân Thạnh (Trà Vinh). Làng nghề nấu rượu đế này đã tồn tại rất lâu đời tại xã Phú Lễ – Ba Tri. Rượu Phú Lễ được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng và biết đến bởi sản phẩm rất thơm ngon, tinh khiết, chất lượng ổn định, không độc hại và hợp khẩu vị của người tiêu dùng.
Đến Bến Tre, khám phá và trải nghiệm tại các làng nghề truyền thống làm nên những đặc sản nổi tiếng của Bến Tre, đón nhận những tình cảm mến khách và nét đôn hậu, mộc mạc của đất và người dân vùng sông nước xứ dừa, du khách sẽ rất thú vị không thể nào quên và rồi du khách sẽ trở lại tiếp tục khám phá các làng nghề khác nơi đây.
Về xứ dừa – Đến làng nghề khám phá các đặc sản nổi tiếng
Từ xưa đến nay Bến Tre như là địa điểm quen thuộc của những ai đã từng đặt chân đến đây. Bởi cái vị mộc mạc, chân tình của người dân “xứ dừa” đã làm nên mối dây liên kết không thể tách rời giữa người bản địa và du khách. Cứ mỗi lần về xứ dừa, du khách sẽ được tận mắt cảm nhận những “cái nhất” được truyền từ đời nay sang đời khác, mà đến nay người dân Bến Tre vẫn còn lưu giữ và gần như đã trở thành món ăn tinh thần, rồi trở thành “làng nghề” tự lúc nào mà chẳng ai nhớ rõ thời điểm sự ra đời của nó.
Làng nghề truyền thống ở Bến Tre ra đời gắn liền với thời gian, tồn tại và phát triển đã tạo nên sự giao thoa mãnh liệt giữa quá khứ – hiện tại. Qua đó, thúc đẩy một diện mạo mới cho những người có tâm huyết với nghề, đặc biệt là những nghề truyền thống đã góp phần làm nên những sản phẩm nổi tiếng của địa phương. Các làng nghề được phân bố đều tại các huyện, thành phố Bến Tre dựa trên những đặc điểm vốn có của từng địa phương, được nhân rộng ra, nhưng vẫn giữ được nét nguyên thủy ban đầu vốn có của nó.
Hiện nay, du khách đến Bến Tre có thể tham quan khám phá một số làng nghề tiêu biểu như:
Làng nghề sản xuất kẹo dừa Bến Tre
Kẹo dừa Bến Tre vừa là một đặc sản nổi tiếng của cả nước. Nó là một nghề thủ công truyền thống mang đậm nét văn hóa của xứ sở dừa. Không đơn thuần mà khi nhắc đến Bến Tre du khách không thể nào quên được “kẹo dừa” vừa ngon, vừa béo, vừa thơm, mà đi đâu ai cũng nhắc đến và cũng không nơi nào làm giống được. Kẹo dừa có nguồn gốc từ Mỏ Cày, vì thế mà ca dao Bến Tre đã lưu truyền:
“ Bến Tre nước ngọt sông dài
Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh
Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo
Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan…”
Ngày xưa, người Bến Tre làm kẹo dừa để ăn trong gia đình hay để biếu bè bạn, người thân trong những dịp lễ, tết. Sau đó, nghệ thuật làm kẹo dừa đã không ngừng được cải tiến và đã trở thành một sản phẩm truyền thống đặc biệt của Bến Tre. Muốn làm kẹo ngon, khâu chọn nguyên liệu rất quan trọng. Thóc nếp dùng để nấu mạch nha phải là nếp tốt, hạt to chín đều. Để nẩy mầm thóc phải được tưới bằng nước mưa sạch rồi đem nấu lấy mạch nha. Thợ nấu mạch nha phải là thợ lành nghề điêu luyện. Dừa khô lựa trái “rám vàng” mới vừa hái xuống. Vì trái dừa mới bắt đầu khô này có hương vị đặc trưng, nước cốt có độ ngọt thanh. Đường nấu kẹo phải chọn loại đường mới, có màu vàng tươi. Ngày nay, người Bến Tre đã cải tiến làm thêm nhiều loại kẹo dừa có kết hợp với các nguyên liệu khác làm cho kẹo dừa Bến Tre ngày càng phong phú và ngon hơn như: cho thêm hương vị sầu riêng, đậu phộng, thậm chí cả ca cao vào kẹo. Đây là hiện tượng giao lưu và tiếp biến văn hóa trong nghệ thuật ẩm thực rất sáng tạo của người Bến Tre, để đáp ứng sở thích của nhiều đối tượng khách hàng, để có thể mở rộng thị trường.
Sau này do nhu cầu và điều kiện phát triển kinh tế, việc sản xuất kẹo dừa đã được mở rộng ra ngoài huyện Mỏ Cày và hình thành nên làng nghề sản xuất kẹo dừa ở phường 7 – thành phố Bến Tre. Đây là điểm đến cho du khách tham quan, khám phá, trải nghiệm.
Từ vòng xoay Tân Thành, du khách đi thẳng theo Đại lộ Đồng Khởi để vào trung tâm thành phố Bến Tre. Đến vòng xoay chợ Bến Tre du khách rẽ phải qua đường Cách mạng Tháng Tám, sau đó đến vòng xoay chợ ngã năm, đi theo đường Nguyễn Văn Tư đến phường 7 tham quan làng nghề làm kẹo dừa. Ngoài ra, nếu du khách không vào trung tâm thì rẽ vào đường tránh QL 60, ngay vòng xoay cầu Hàm Luông, hướng lên cầu Bến Tre 2 – đến vòng xoay Bình Phú, du khách rẽ phải là đến trung tâm làng nghề “Kẹo dừa Bến Tre”.
Có thể nói kẹo dừa luôn gắn bó với cuộc hành trình khám phá văn hóa, ẩm thực, du lịch ở vùng đất xứ dừa. Vì thế, mà khi du khách đến Bến Tre hình như ai cũng tìm mua kẹo dừa về làm quà cho gia đình, người thân, bè bạn.
Tại các điểm du lịch sinh thái Châu Thành, thành phố Bến Tre, có tổ chức các điểm sản xuất kẹo dừa truyền thống, để du khách tận mắt chứng kiến, cũng như trực tiếp tham gia vào quy trình làm ra sản phẩm kẹo dừa. Qua đó, du khách trải nghiệm và cảm nhận những tâm tư, tình cảm của người dân vùng sông nước xứ dừa.
Làng nghề sản xuất “Bánh tráng Mỹ Lồng”- “Bánh Phồng Sơn Đốc”
và “Bánh phồng Phú Ngãi”
Từ thành phố Bến Tre du khách theo đường tỉnh 885 khoảng 7km là tới làng nghề làm “bánh tráng Mỹ Lồng”. Làng nghề này, nằm ở xã Mỹ Thạnh –Giồng Trôm, sản phẩm rất được người tiêu dùng ưa chuộng. Có thể nói, đây là sản phẩm có tiếng cả trong lẫn ngoài tỉnh. “Bánh tráng Mỹ Lồng” có nhiều hương vị khác nhau, để du khách có thể lựa chọn như: Bánh tráng béo nước cốt dừa (loại ngọt, mặn); bánh tráng béo dừa có thêm sữa; trứng gà hay bánh tráng sữa không dừa. Tuy nhiên, loại bánh tráng ngon nhất, được ưa chuộng nhất vẫn là bánh có dừa (loại này vừa béo, vừa xốp). Khi đặt bánh lên lò lửa than nướng, bánh vừa vàng tới đã tỏa mùi hương thơm béo béo, rất hấp dẫn.
Trải qua bao thăng trầm, tâm huyết nghề truyền thống, kết hợp với sự khéo léo từ những bàn tay của người thợ ngày nay ở làng nghề đã sáng tạo thêm loại bánh tráng nem (hay còn gọi bánh tráng cuốn), vừa mỏng, vừa dai, vừa tay cuốn. Loại bánh tráng nem này, hiện có mặt ở rất nhiều nhà hàng sang trọng chốn thị thành.
Từ điểm làng nghề “Bánh tráng Mỹ Lồng”, du khách tiếp tục đi theo tuyến đường này khoảng 15km. Đến ngã ba Sơn Đốc, có bày bán thật nhiều dừa xiêm và bánh phồng nếp, rẽ phải gần 1km du khách đến làng nghề “Bánh phồng Sơn Ðốc”. Làng nghề này, nằm tại chợ Sơn Đốc, thuộc xã Hưng Nhượng – huyện Giồng Trôm, chợ tuy nhỏ nhưng khang trang nằm lọt thỏm giữa rừng dừa xanh mát và những ngôi nhà tường mới xây lợp mái ngói, đã chứng tỏ sự hưng thịnh của làng nghề “Bánh phồng Sơn Ðốc”.
Là vùng làm bánh có tiếng từ lâu và nhờ có tiếng tăm như thế, nên bánh phồng được lấy tên bởi chính địa danh nơi làm bánh. Theo người làm bánh, thì bánh phồng làm công phu hơn bánh tráng. Nguyên liệu làm từ nếp nhưng phải nấu thành xôi, cho vào cối “quết” nhuyễn cùng với các phụ liệu khác; rồi mới bắt bột vo tròn lại, cán mỏng đem phơi. Cũng như bánh tráng, phơi bánh phồng là một kỳ công, nắng vừa phải, nếu nắng quá bánh sẽ chai, gặp mưa xuống bánh bị hư. Vào làng nghề quết bánh phồng mỗi sáng, du khách nhìn thấy và sẽ nghe tiếng chày thậm thịch, rộn rã khác thường. Bình thường mỗi lò quết khoảng 30 – 40 lít nếp mỗi ngày. Cao điểm nhất là vào dịp Tết, có khi đến 200 lít.
Ở xã Phú Ngãi – Ba Tri cũng có một làng nghề làm bánh phồng rất có tiếng. Nếu du khách muốn tham quan, cũng tuyến đường tỉnh 885 này đến thẳng thị trấn Ba Tri. Sau đó tiếp tục đi khoảng 7 km nữa là đến làng nghề “Bánh phồng Phú Ngãi”. Mặc dù cũng làm bánh phồng như làng nghề ở Sơn Đốc, nhưng với bí quyết riêng nên bánh ở đây cũng ngon không kém gì nơi khác.
Theo truyền thống của người dân xứ dừa, khi thưởng thức được chiếc bánh tráng, bánh phồng, đều phải dùng lửa than để nướng. Người ta dùng vỏ dừa khô hoặc gáo dừa đốt thành than đỏ rực, rồi để bánh lên cập nướng. Bánh nướng phải trở qua, trở lại, liên tục thì bánh mới nở bung ra, vàng đều, ăn mới giòn và ngon. Mỗi khi tết đến, tiết trời se se lạnh, nhất là vào buổi sáng và tối, hình như gia đình nào ở làng quê xứ dừa cũng chuẩn bị cho nhà mình vài chục bánh tráng, vài chục bánh phồng. Rồi mọi người đều thích quây quần bên bếp lửa đỏ để nướng bánh, để thưởng thức, để được sưởi ấm. Rộn rã, lộn xộn nhất là sự chen chút dành chổ ngồi quanh bếp lửa vẫn là các cháu nhỏ tuổi bí bô, tuổi cấp sách đến trường, để được ông, Bà hay cha, mẹ, anh, chị cho những miếng bánh vừa mới nướng xong. Nhìn những gương mặt ngồi quanh bếp lửa, xem nướng bánh, hình như ai cũng có đôi gò má ửng hồng hây hây rất đáng yêu.
Ngày nay, do sự hối hả, tất bật của cuộc sống, do nhu cầu thưởng thức bánh ngày càng nhiều, nên người dân xứ dừa đã làm lò nướng được một lúc với số lượng rất nhiều bánh. Du khách có thể bắt gặp và dễ dàng mua các loại bánh tráng, bánh phồng nướng sẵn rất xốp, giòn, rất thơm ngon tại các điểm nằm dọc trên đường đến làng nghề nầy. Nếu du khách mua bánh mang về thì có thể nướng được trên bếp gas hay lò nướng bằng điện hoặc có thể cắt nhỏ ra dùng dầu, mỡ chiên như bánh phồng tôm.
Có thể nói, nghề quết bánh phồng rất kỳ công, vất vả hơn so với nghề làm bánh tráng, ngay cả từ khâu nguyên liệu đến các công đoạn để làm ra sản phẩm.
Để trải nghiệm quy trình làm nên sản phẩm bánh tráng, bánh phồng, tại các điểm du lịch sinh thái Châu Thành có tổ chức các điểm làm bánh tráng, bánh phồng truyền thống, để du khách có thể tham quan và trực tiếp tham gia làm bánh.
Làng nghề sản xuất rượu nếp Phú Lễ
Ở Đồng bằng Sông Cửu long giới “ẩm giả” sành điệu xưa nay vẫn xếp rượu Phú Lễ (Bến Tre) vào hàng “danh tửu” cùng với rượu Gò Đen (Long An), Xuân Thạnh (Trà Vinh). Làng nghề nấu rượu đế này đã tồn tại rất lâu đời tại xã Phú Lễ – Ba Tri. Rượu Phú Lễ được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng và biết đến bởi sản phẩm rất thơm ngon, tinh khiết, chất lượng ổn định, không gây độc hại và hợp khẩu vị của người tiêu dùng.
“Rượu Phú Lễ” không biết có tự bao đời, chỉ biết tư liệu sách sử ghi lại vào năm 1851 Đình Phú Lễ tại làng Phú Lễ – Ba Tri được vua Tự Đức sắc phong, trong nghi thức đón nhận sắc phong “Rượu Lễ” đóng vai trò quan trọng. Nguyên liệu dùng để nấu rượu này là loại nếp mùa dài ngày ngon nhất, được đích thân trưởng lão trong làng chọn 36 vị thuốc theo liều lượng thích hợp, các vị thuốc đó là: trần bì, quế khâu, đinh hương, tất phát, đại hồi, sa nhân, tiểu hồi, lương cương, càng cương, bạch khấu, ngọc khấu, mai hoàng, hậu phát, thảo quả, quế chi, trạch lan, xích thước, hồng hoa, linh cừ, mật nang, tạo giác, cam thảo, son tàu, cam thảo nam, thiên niên kiện, cát cánh, bồ kết, hương truật, nhãn lòng, trầu lương, rau răm, lá nhãn, ngũ vị, tai vị, tiêu sọ, mồng tưới. Các vị thuốc này được xay nhuyễn, trộn bột gạo lứt, nhồi chung với cám, vo thành viên rồi phơi khô tạo thành một loại men đặc biệt gọi là hồ men.
Cũng từ tư liệu sách sử ghi lại và lưu truyền qua lời kể của các hộ dân có truyền thống nấu rượu lâu đời nơi đây, thì qui trình làm rượu Phú Lễ rất công phu. Nếp nấu chín rồi rắc trộn với men này, cho vào tĩnh ủ kín. Sau 07 ngày – 07 đêm mới đưa vào diệm kháp. Lửa đun phải dùng chính vỏ trấu của nếp mùa, ngọn lửa phải đằm không lớn, không nhỏ thì rượu mới không bị đắng không bị “thét”. Rượu ra lò chưa dùng ngay mà phải hạ thổ (chôn xuống đất) 100 ngày, để hấp thụ âm dương của trời đất cho rượu thật “nhuần”. Đến ngày khai rượu, Trưởng Lão chay tịnh sạch sẽ, lấy rượu hạ thổ đặt vào nơi trang trọng nhất. Nhờ vậy mà rượu Phú Lễ có được hương vị thật thanh tao, diễm tuyệt. Rượu Lễ này được chuyển về kinh dâng Vua, được ngài khen tặng và đặt tên rượu theo tên làng là “Rượu Phú Lễ”.
Trải qua bao thăng trầm, vượt qua bao thử thách, bền bỉ tạo dựng, rượu Phú Lễ vẫn được người dân Phú Lễ làm công phu như thế, để giữ bằng được chất lượng của loại rượu danh tiếng này. Vì thế, mà hương vị rượu Phú Lễ ngày càng thanh tao diễm tuyệt hơn. Điểm đặc biệt nhất trong quy trình kháp rượu Phú Lễ người dân sử dụng cùng lúc hai loại men để lên cơm da. Loại thứ nhất (men Phú Lễ) làm từ gạo lức và một số vị thuốc bắc để lên cơm da. Loại thứ hai (hồ men Phú Lễ) cũng từ gạo lức và có đến 36 vị thuốc dùng để tạo hương vị đặc trưng riêng cho rượu. Như vậy, nghề nấu rượu đế ở xã Phú Lễ đã có từ lâu đời và đã trở thành một làng nghề truyền thống của địa phương.
Đến Bến Tre, khám phá và trải nghiệm tại các làng nghề truyền thống làm nên những đặc sản nổi tiếng của Bến Tre; đón nhận những tình cảm mến khách và nét đôn hậu, mộc mạc của đất và người dân vùng sông nước xứ dừa. Du khách sẽ rất thú vị không thể nào quên và rồi du khách sẽ trở lại tiếp tục khám phá các làng nghề khác nơi đây./.